Mặc dù đã về hưu từ nhiều năm, nhưng quan
tri phủ họ Hoàng, tục gọi Hoàng Nhân đại gia, vẫn được mọi người biết
tiếng. Dù là tiếng ác, nhưng dẫu sao không một ai ở phủ Diên Sơn, vùng
ven biển này lại không quen tên, thuộc nết ông ta. Họ Hoàng còn khá
nổi tiếng ở khoảng dù giàu sang tột bậc, chức trọng quyền cao, cái gì
cũng có, chỉ tiếc một đều là không có con! Đây là điều bất hạnh duy
nhất mà vợ chồng ông ta mắc phải. Đến nỗi khi ngã bệnh nặng, dẫu thầy
thuốc cấm đoán, nhưng suốt mấy tháng trời nằm trị bệnh, ông ta cũng
bắt bà vợ trẻ hơn ông đến hơn chục tuổi phải ngày đêm ở bên cạnh. Một
phần để hầu hạ, chăm sóc bệnh, nhưng mặt khác, quan trọng hơn là để
giúp lão ta có con!
Với người khác thì chuyện có một vài đứa con nó dễ như ăn
cơm, uống nước hằng ngày, vậy mà lão Hoàng lại cực khó, đúng hơn là
nan giải vô cùng!
Biết chồng bệnh, nhưng vì thấy ông quá thiết tha, gần như là
lời trối trăng mỗi khi yêu cầu bà cho lão một đứa con nối dõi. Hoàng
phu nhân, tên tục là Nguyệt Ánh đã phải hứa để chồng yên tâm:
- Mình cứ ráng uống thuốc, nhất là thuốc bổ, em sẽ cố có kết quả kỳ này!
Và hình như trời không phụ lòng lão ta, một tuần trăng sau Hoàng phu nhân báo tin:
- Em đã... có dấu hiệu!
Đang rất yếu sức, vậy mà khi nghe tin ấy, lão Hoàng đã bật dậy ngay, hổn hển nói:
- Nếu đúng vậy... tôi... tôi tri ân bà. Tôi...
Lão chỉ nói được có vậy rồi ngã vật ra nằm thiêm thiếp. Đó
là hậu quả của nhiều lần thức dậy nửa đêm (theo lời dặn của thầy
thuốc) ráng sức lên đỉnh vu sơn đi tìm con!
Lão Hoàng qua đời chỉ sau đó một tuần. Bà Nguyệt ánh thương
khóc chồng thì ít mà lo cho cái thai mới tượng hình thì nhiều. Chẳng
hiểu sao, kể từ khi bà cấn thai thì hầu như đêm nào cũng thấy ác mộng.
Mà những cơn ác mộng đều giống nhau: bà thấy một đứa bé khôi ngô tuấn
tú cứ đứng ngay trước mặt bà mà cười và đòi đánh!
Khi tỉnh dậy, bà thắp nhang khấn vái. Mỗi lần như vậy thì bà
yên được vài giờ, rồi sau đó lại tiếp tục bị ác mộng hành hạ.
Chuyện tưởng chỉ có vậy. Nào ngờ khi cái thai được chín
tháng mười ngày theo thông lệ thì bà Ánh chẳng có dấu hiệu gì của một
cuộc chuyển dạ, chờ thêm chục ngày nữa vẫn chẳng có tín hiệu. Đi khám
thai thì thầy thuốc sau khi xem mạch đã phán một câu gọn lỏn:
- Chưa có dấu hiệu sinh, ít nhất cũng một tháng nữa!
Bà Nguyệt ánh cãi lại:
- Tôi tính ngày tháng rất kỹ, sao lại có chuyện trễ đến như vậy?
Vị lương y quả quyết:
- Đó là tôi nói sớm, chớ thật ra chẳng hề có một biểu hiện gì về sinh sản trong vòng một vài tháng tới cả!
Không tin ông thầy thuốc này, bà cho gia nhân đi rước những
lương y nổi tiếng hơn về. Sau khi khám kỹ, họ cũng nói y như vậy:
- Chưa có dấu hiệu sinh!
Có đến mười thầy thuốc đã nói như vậy cho nên bà Ánh không còn nhờ ai nữa. Bà tự an ủi:
- Có lẽ do mình lớn tuổi rồi nên mang thai không như người
bình thường. Thôi thì mặc, lúc nào sinh cũng được miễn không có biến
chứng gì thì không cần lo.
Kết quả thật ngoài sức tưởng tượng: Bà Ánh mang thai đến tháng thứ mười bốn thì có triệu chứng thất thường.
Bà ta nghe đau bụng rồi kêu gào đau đớn. Cuộc chuyển dạ sinh
kỳ lạ đã trải qua năm ngày ròng lăn lộn, kêu la mà bà ta vẫn chưa
sinh được! Thật ra đó không phải là chuyển bụng sinh.
Một buổi chiều, trong lúc người nhà đi vắng thì có một vị
đạo sĩ mặc đạo bào màu đen rất lạ, đột ngột ghé qua. Vừa bước vào tới
cửa ông ta đã lên tiếng:
- Ở đây nghiệp chướng nặng quá, sao không giải nó đi?
Bà Ánh đang nằm kêu la trên ghế trường kỷ, nghe vậy ngẩng
lên nhìn và khó chịu khi thấy người lạ. Tuy nhiên, lúc đó vị đạo sĩ
lại lên tiếng:
- Nghiệp chướng nơi này nặng lắm, không khéo lại nguy đây!
Gợi tò mò, Nguyệt Ánh hỏi:
- Nghệp chướng gì?
Ông ta chỉ thẳng vô bụng của bà Ánh, bảo:
- Ở đây!
Nghĩ lão ta điên, bà Ánh quát lớn:
- Ông ở đâu vào đây nói nhảm, đi đi!
Mặc cho bà ta đuổi, lão đạo sĩ vẫn trầm tĩnh nói tiếp:
- Tôi chẳng mắc mớ gì chuyện này, nhưng khi đi ngang qua đây
phát hiện được, tôi chẳng thể làm ngơ. Bà sắp gặp tai nạn lớn, một là
bà chết, hay là... đứa bé trong bụng phải chết!
Vừa nghe lão ta nói tới đó, bà Nguyệt ánh đã thét lên:
- Nói bậy!
Rồi bà ta ôm lấy bụng của mình, như sợ bị xâm hại.
- Đây là đứa con mà chồng tôi lúc sắp chết cũng muốn có nó cho bằng được. Ông chẳng biết gì thì hãy đi ra đi!
Bà lớn tiếng, đáng lý phật ý, nhưng vị đạo sĩ vẫn không tỏ ra chút phiền lòng, ông tiếp tục nói:
- Mạng sống của bà tuỳ thuộc vào vật trong bụng mà bà đang mang.
- Ông im đi!
Bà Nguyệt Ánh cố đứng lên để đi vào trong, tránh phải nghe
người khách lạ này nói nữa. Đứng nhìn theo bà, vị đạo sĩ khẽ lắc đầu:
- Nghiệp chướng khó trừ!
Nói xong, ông lặng lẽ bỏ đi. Khi ra tới ngoài rồi ông vẫn còn ray rứt nên quay vào nói, cố tình cho chủ nhà nghe:
- Vẫn còn chưa muộn! Nếu bà muốn sống thì chiều nay tìm tôi ở bến đò.
Ông ta đi rồi, lúc này trong nhà bà Ánh bỗng gào lên:
- Trời ơi!
Bà kêu được mấy tiếng đó rồi ngất đi.
Đến chiều, lúc vừa tỉnh lại thì bà nôn nóng đòi người nhà dẫn đi ra bến đò. Bà dặn:
- Phải tìm cho được lão đạo sĩ. Ông ta sẽ làm hại con tôi.
Lúc ra tới chỗ bến vắng, bà đã gặp ngay ông đạo mà không cần
tìm. Vừa trông thấy bà, ông chỉ một chiếc xuồng nhỏ và bảo:
- Bà hãy xuống xuồng đi, nó sẽ giúp bà được toại nguyện. Vẫn còn kịp!
Bà Nguyệt Ánh nhìn thẳng vào ông ta, giọng giận dữ:
- Tôi tìm để hỏi tội ông, tại sao ông cứ muốn hại con tôi?
Lúc hôn mê, tôi được nó báo là ông đang tìm cách giết nó. Vậy là sao?
Vị đạo sĩ nghiêm giọng:
- Chỉ bởi tôi muốn cứu bà. Bà đâu biết thứ bà mang trong
người là mối hoạ lớn cho bà, cho cả sản nghiệp của bà nữa! Hãy làm
theo lời tôi đi!
Ông nói dứt lời thì bất thần dùng tay đẩy nhẹ, khiến cho bà
Ánh mất thăng bằng nhào ngay xuống chiếc xuồng đang không có người.
Cũng may là dù ngã bất ngờ nhưng bà chẳng sao, kể cả cái thai trong
bụng cũng không hề hấn gì.
Chiếc xuồng không ai bơi nhưng đã tự động rời bến, khiến bà ánh phải la lên:
- Tôi không biết lội, không biết bơi xuồng, phải kéo tôi vào mau lên!
Vị đạo sĩ vẫn lờ đi, ông ngửa mặt lên trời, lẩm bẩm gì trong miệng mà người đứng gần cũng không nghe được.
Trời đang lặng gió, bỗng sóng nổi lên, rồi gió như lốc xoáy,
khiến chiếc xuồng quay như chong chóng. Tiếng của bà ánh lúc đầu còn
la lớn, nhưng chỉ một lúc sau thì im bặt.
Khi gió ngừng thì chiếc xuồng đã tự động cập bến, Bà Ánh hầu
như chẳng còn biết gì nữa. Lúc này ông đạo mới gọi lớn:
- Đưa bà ấy về, nhớ là không được để bà ấy một mình đi ra ngoài.
Dặn xong, ông vừa định bước đi thì bất ngờ ông nghe một
tiếng khóc của trẻ con vang lên. Sững sờ giây lát, rồi ông nhẹ lắc đầu
thở dài:
- Số kiếp cả thôi! Đành chịu.
Đứa hài nhi do bà Ánh sinh ra trong hoàn cảnh này đáng lý
rất lo ngại, tuy nhiên nhìn nó chòi đạp và cất tiếng khóc thì có vẻ
bình thường. Giây lát sau nó lại nín khóc và đưa tay quơ quơ như thèm
sữa hay khát nước, ông đạo phải xua tay bảo mấy gia đinh của bà ánh
vừa có mặt kịp thời:
- Hãy mang bà ấy về. Mọi việc là do số trời cả!
Ông bước đi vừa lắc đầu chán nản...
° ° °
Bà Nguyệt ánh dù sinh nở bất thường, nhưng
cuối cùng cũng có được một đứa con trai như bà hằng mong đợi. Thằng bé
ra đời chậm hơn bình thường đến bốn tháng, nên sau khi sinh đã có
những biểu hiện khác người. Nó biết đi khi vừa được sáu tháng tuổi và
biết nói như một đứa trẻ lên năm khi mới tám tháng! Điều ấy là bất
thường và kỳ lạ, nhưng vì quá thương con, quý trọng giọt máu duy nhất
của chồng còn để lại, nên bà Ánh hầu như không quan tâm những gì khác,
ngoài tình thương yêu dành cho con, ngày đêm nâng niu chăm sóc cho
cậu quý tử của mình.
Khi thằng bé Bảo An đầy năm, bà Nguyệt Ánh chuẩn bị một lễ
thôi nôi thật lớn, mời hầu như khắp mọi người trong vùng. Dẫu chồng
không còn đương chức, nhất là ông đã chết, nhưng tiếng tăm của nhà họ
Hoàng vẫn còn lớn, nên lời mời của bà vẫn được hưởng ứng tích cực.
Mới sáng sớm ngày lễ thôi nôi mà đã có mấy chục người từ
những nơi rất xa kéo đến. Đến trưa, tức thời khắc chính thức khai tiệc
thì hầu như cái khuôn viên rộng lớn của dinh thự Hoàng Nhân đã không
còn một chỗ trống. Trong số khách dự có cả vị đạo sĩ áo đen lần trước.
Ông lặng lẽ chen và giữa đám đông như mọi người, rồi hầu như chẳng
còn thấy bóng dáng nữa...
Một đứa bé ở tuổi thôi nôi thì thông thường đều do mẹ hoặc
người nhà bế ra để chào khách dự tiệc, nhưng ở đây thì khác. Bởi cậu
bé Bảo An đã lớn như một đứa bé lên năm tuổi nên chính nó tự đi ra và
bất ngờ đứng lên bàn cất tiếng:
- Chào bà con! Bữa nay bà con xa gần đều có mặt, trong số
này có người tốt cũng có kẻ xấu, nên tôi muốn nhìn mặt kẻ xấu trước.
Vậy ai là kẻ xấu hãy bước ra!
Dĩ nhiên không ai chịu nhận mình là kẻ xấu, cho nên thằng bé
kêu gọi tới lần thứ hai mà vẫn chưa một ai bước ra. Chẳng những thế,
trong số khách mời có nhiều người tỏ ra bực bội, tự hỏi, tại sao lại
để một đứa nhóc con như thế nói năng hỗn láo, phạm thượng!
- Tư cách gì mà thằng nhỏ này lại ăn nói như thế?
Người vừa lên tiếng chính là anh rể của lão Hoàng. Tuy ông
nay đã khá lớn, nên khi giận phát âm có phần run và nghẹn. Ông ta vừa
dứt lời thì thằng bé phá lên cười:
- Chờ hoài cuối cùng cũng chường mặt ra. Lão tính tới đây
hôm nay là nhằm mục đích khác, chứ đâu chỉ đi dự đám thôi nôi, phải
không?
Bị thằng nhóc nói đúng tim đen, nên lão già tên gọi là Sáu Hết quát luôn:
- Tao tới đây đòi món nợ mà ba mày còn nợ của tao ngày trước, mẹ con bay phải trả lại cho tao!
Lão vừa nói vừa bước ra, thì ngay trước mặt bà Nguyệt Ánh và thằng bé Bảo An đưa tay chỉ vào nó:
- Thím dạy con như vậy sao? Nó là con nít, sao đủ tư cách để
hoạnh hoẹ người lớn đáng tuổi cô bác nó? Kẻ xấu là sao mà người tốt
là thế nào?
Bà Ánh chưa kịp đáp thì thằng bé đã hớt ngang:
- Tốt là không bòn rút nhà này, còn kẻ xấu là tìm cách chống
lại nhà họ Hoàng và còn đi vu khống, nói xấu ba tôi nữa. Chính ông đã
đi rêu rao là ba tôi ở ác, tham lam đủ điều, ông còn chối không?
Ông Sáu Hết giận đến run người:
- Thằng ranh con hỗn láo. Chính ba mày ngày còn làm quan đã
lấy hết đất đai của tao đem bán, rồi còn vu cáo tao là phản tặc, khiến
tao bị tù đày nhiều năm trời, gia đình ly tán, sản nghiệp tiêu tan,
đây tay trắng lại mang bệnh sắp chết đây!
Chẳng những không nao núng, thằng bé còn ngửa mặt cười vang:
- Vui quá, lại có một thằng hề già ra làm trò! Còn ai là kẻ xấu nữa không, bước ra hết đi.
Noi gương lão Sáu Hết, có đến gần chục người nữa bước ra đứng dàn hàng ngang vừa lên lếng:
- Bữa nay chúng tôi tới đây là để đòi nợ, đòi sự công bằng.
Nhà họ Hoàng phải trả ngay đất đai, tài sản cho chúng tôi!
- Còn ai nữa ra luôn!
Giọng thằng bé đầy thách thức, nó lại quay khắp hướng với nụ
cười nửa miệng y như một người trưởng thành. Bỗng một người xuất
hiện, người mà vừa trông thấy thì bà Ánh đang đứng cạnh con đã phải
giật mình.
Đó là ông đạo sĩ mặc đạo bà đen. Bà lắp bắp:
- Ông... ông tới đây làm gì? Đâu có ai mời.
Lão vẫn bình tĩnh:
- Ở đây hôm nay chỉ có một số người được mời, còn lại là
những người tới để đòi nợ như quý vị đây vừa nói. Tôi cũng đòi nợ như
mọi người đây!
Thằng bé quen thói trịch thượng như nãy giờ, nó nhìn ông đạo sĩ vừa hất hàm:
- Ông bước lại gần đây coi!
Bà Nguyệt Ánh muốn ngăn con lại nhưng không còn kịp nữa, ông đạo đã bước tới và với giọng chậm rãi như thường lệ:
- Nghiệt súc quá ngông cuồng! Lần trước ta không cương quyết nên ngươi mới lọt ra đời được, còn bây giờ...
Lão đưa tay lên, từ trong tay áo rơi ra một tấm vải màu vàng, vừa chụp lấy lão vừa hô to:
- Nghiệt súc, biến!
Bị bất ngờ nên thằng bé chới với, đến khi thấy nguy nó chỉ
còn biết thụp người xuống. Cũng may vừa khi ấy bà Nguyệt Ánh đã nhanh
trí, lấy cả thân mình của bà đè lên con vừa bảo:
- Nằm yên!
Mọi người chỉ nghe một tiếng kêu thét lên sau đó và khi nhìn
lại họ đều hốt hoảng, bởi bà Nguyệt Ánh đã nằm bất động, khoé miệng
tuôn đầy máu! Trong khi thằng bé thì đã nhanh chân lủi trốn mất trong
đám đông khách khứa.
Lão đạo sĩ một lần nữa thở dài:
- Trời hại nhà họ Hoàng này rồi!
Nhiều người chưa hiểu chuyện đã vây quanh ông, hỏi dồn:
- Chuyện gì đã xảy ra vậy? Liệu bà Hoàng có sao không?
Lão đạo sĩ sau khi đưa tay bắt mạch cho bà Ánh đã trấn an:
- Bà ấy không sao, chỉ bị nội thương nhẹ thôi, rồi sẽ tỉnh lại ngay mà.
Rồi lão giải thích thêm:
- Lúc nãy nếu bà ấy không che chở cho nó thì thằng con
nghiệt súc kia đã phải tàn đời rồi. Tôi phải ra tay như vậy là chỉ để
cứu cái nhà này khỏi hoạ diệt vong thôi. Nó là oan gia là kết tinh của
bao nhiêu oan hồn uổng tử đầu thai về để hại dòng họ Hàng này táng
tận, tiêu vong!
Vài người trong thân tộc vốn không rõ chuyện ác của Hoàng đại nhân ngày trước, nên tỏ ra không đồng tình.
- Dù sao thằng bé cũng là giọt máu hiếm hoi còn lại của họ Hoàng, sao ông làm như vậy?
Lão đạo sĩ lắc đầu:
- Các vị không biết đó thôi, nó đâu phải là người! Không
thấy sao, mới có một tuổi mà nói năng hành động như một người lớn và
còn hỗn láo, trịch tượng nữa. Nếu để nó tồn tại thì cái nhà này không
mấy chốc chẳng còn gì.
- Nhưng dẫu sao...
Vừa lúc đó bà Nguyệt Ánh tỉnh lại, bà quên cả đau đớn gào khóc, kêu gọi con trai:
- Bảo An ơi, chạy đi con! Hãy chạy và trốn đi, đừng để lão ta giết con!
Lão đạo sĩ nhẹ giọng:
- Tôi không giết nó, chỉ muốn thu nạp để tách nó ra khỏi
đây. Nhưng tôi đành chịu thất bại, bởi ngoài có bà đỡ cho nó còn được
lũ yêu tinh đồng bọn theo rất đông, lần này tôi không làm gì được thì
lần sao khó mà thành công. Thôi, tuỳ bà, tôi xin cáo từ!
Ông đi nhanh ra cửa rồi mất dạng.
Bà Nguyệt ánh hơi ngượng với mọi người, nên chống chế:
- Do nó là con cầu tự mà, nên tôi cưng chiều, khiến nó hỗn hào. Nhưng trẻ con mà, rồi mình sẽ uốn nắn nó từ từ...
Bà lủi thủi đi vào nhà, miệng cứ gào kêu tên con...
° ° °
Bà Nguyệt Ánh không chết, nhưng từ hôm đó bà hầu như hôn mê. Bảo An bỏ đi đâu mất không thấy bóng.